Chị Đỗ Thị Ý có tên Yuly Shetty tại Ấn Độ. (Ảnh: NVCC) Chị Đỗ Thị Ý kể rằng vào tháng 10/2019, anh Porithosh Shetty quyết định tới Đà Nẵng du lịch. Khi quá cảnh tại TP. Hồ Chí Minh, anh đã vô tình nhìn thấy hình ảnh của chị (một nhân viên y tá làm việc tại một trung tâm y tế ở Quận 5) trên một ứng dụng hẹn hò.
"Ý tại ngôn ngoại" là một trong số những đặc trưng tiêu biểu kết đọng vẻ đẹp của thơ Đường. Và vô hình trung, nó cũng trở thành nguyên lí sáng tác của rất nhiều nghệ sĩ: Bài thơ anh làm một nửa mà thôi, Và với bạn đọc, những vần thơ hàm súc như thế bao giờ cũng có sức hấp dẫn đặc biệt.
Bài này sẽ trình bày về những bí ẩn của ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML), nhưng thực chất chẳng có gì bí ẩn. Trình xử lý văn bản của bạn phải có khả năng lưu tập tin ở dạng văn bản. Notepad làm việc này một cách tự động; còn các trình xử lý văn bản
Giới thiệu khoa Ngoại ngữ. Lưu ý: để thông tin sổ tay bạn nắm được luôn mới nhất, sau khi truy cập vào sổ tay này, bạn vui lòng ấn F5 hoặc nút tải lại trang để cập nhật thông tin mới nhất (vì sổ tay thường xuyên chỉnh sửa nên yêu cầu phải refesh để cập nhật, nếu không thì bạn vẫn đang ở phiên bản
️ Đọc truyện tranh Ta ở nhà 100 năm khi ra ngoài đã vô địch Chap 1 Tiếng Việt bản đẹp, tải nhanh, không quảng cáo, cập nhật sớm nhất tại NhatTruyen
Fast Money. Bài văn mẫu lớp 10Văn mẫu lớp 10 "Ý tại ngôn ngoại” là một trong những đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường, anh chị hãy chứng minh đặc trưng đó qua các bài thơ Đường đã học gồm các dạng văn mẫu được VnDoc sưu tầm và giới thiệu củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo."Ý tại ngôn ngoại” là một trong những đặc trưng tiêu biểu của thơ ĐườngThâm trầm, sâu sắc là một trong những đặc trưng, tính cách nổi bật của người Trung Quốc. Đặc trưng này đã đi vào thơ ca, và trở thành một trong những nét tiêu biểu của thơ Đường “ý tại ngôn ngoại”.Cho đến bây giờ, thơ Đường đã có hàng ngàn năm tuổi. Nhưng những bài thơ như Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Thu hứng, Hoàng Hạc lâu, Khuê oán, Điểu minh giản... còn sống mãi trong lòng người đọc. Và một trong những điều làm nên sức bất tử cho các thi phẩm ấy chính là “ý tại ngôn ngoại”.Hiểu nôm na “ý tại ngôn ngoại” là ý ở ngoài lời, là nói ít gợi nhiều. Không phải các nhà thơ Đường tiết kiệm ngôn từ, hay không đủ năng lực diễn giải ý thơ của mình. Một trong những lý do đưa đến đặc trưng này chính là sự gò bó trong lề luật của thể thơ. Các bài thơ viết theo thể Đường luật luôn bị giới hạn bởi số câu, số chữ. Nhưng có lẽ chính điều đó lại khiến thơ Đường cô đọng, hàm súc hơn bất cứ kiểu thơ nào khác. Cái hay của thơ Đường chính là ở đó. Cái tài của thi nhân cũng chính là ở đó. Còn người đọc, tùy theo khả năng thẩm thấu văn chương mà mỗi người có thể tri âm với tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp của mỗi thi đọc Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng một cách hời hợt, chúng ta chỉ có thể thấy những hình ảnh mà Lý Bạch đã gợi nên trong sáng tác của mình Tháng ba mùa hoa khói, tại lầu Hoàng Hạc, Lý Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên xuôi về Dương Châu. Đôi mắt người đưa tiễn cứ trông theo cánh buồm trên con thuyền đưa bạn mình đến nơi xa, cho đến khi chỉ còn nhìn thấy sông Trường Giang chảy vào cõi trời. Nhưng nếu chỉ có vậy thì bài thơ Lí Bạch đầu đáng lưu đến tận ngày nay? Và nếu chỉ lời thơ chỉ đơn thuần như thế, Lí Bạch đâu đáng được gọi là “thi tiện”? Nhưng rõ ràng với bài thơ này, Lí Bạch đã dĩ vô tình ngôn tình lấy vô tình để nói tình nên tắc tình xuất tình tất hiện ra. Bài thơ toàn cảnh, nhưng rõ ràng, đọc nó, độc giả lại cảm nhận được “tình” một cách sâu đậm. Sở dĩ có được hiệu quả thẩm mĩ ấy là do những nghĩa hàm ẩn của từ ngữ, do các mối quan hệ, do hình ảnh cánh buồm dần xa trong đôi mắt thể Kiện tình bạn triền miên vô tận trong tấm nhân tây từ Hoàng Hạc lâuYên hoa tam nguyệt há Dương Hạo Nhiên mới bắt đầu dời lầu Hoàng Hạc mà Lý Bạch đã gọi là cố nhân. Bằng hai chữ này, tình bằng hữu thâm giao giữa Lý Bạch với Mạnh Hạo Nhiên được khắc họa một cách sâu đậm. Hơn thế nữa, thi nhân còn muốn nhấn vào sự chia ly, cách biệt. Con thuyền đưa Hạo Nhiên vừa dời không gian lầu Hoàng Hạc mà sự chia cách dường như đã kéo dài theo thời gian xa tít, biến người bạn thân thiết mới đây còn kề cận của nhà thơ thành cố nhân từ lúc Trung Quốc xưa coi “giai thì, mỹ cảnh, thắng sự, lương bằng” thời tiết đẹp, cảnh đẹp, việc hay, bạn tốt là “tứ thú”. Nhưng trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, “tứ thú” ấy lại khuyết một. Có giai thì, mỹ cảnh, lương bằng những “sự" không “thắng” bởi “sự” là ly biệt. Ly biệt nên buồn là cảm xúc tất yếu. Bài thơ không nói có một chữ buồn nhưng nỗi buồn lại mênh mang. Và chính tâm trạng đó định hướng cho đôi mắt thi nhânCô phàm viễn ảnh bích không tận,Duy kiến Trường Giang thiên tế Trường Giang là huyết mạch giao thông, thương nghiệp của vùng Hoa Trung, Hoa Nam. Giữa mùa xuân thanh bình, hẳn trên sông phải tấp nập thuyền bè. Vậy mà người đưa tiễn chỉ nhìn thấy duy nhất một cánh buồm đơn chiếc cô phàm của cố nhân và cứ nhìn theo mãi cho đến khi nó mất hút sau dòng sông nước. Nỗi cô đơn cứ vời vợi theo hình ảnh thơ. Người ra đi cô đơn, người đưa tiễn cô đơn và cả cánh buồm tưởng như vô tri cũng cô đơn. Nỗi cô đơn càng gia tăng thêm nỗi buồn trong lòng người. Đó chính là lý do khiến bài thơ không một chữ “buồn” nhưng nỗi buồn lại ngập tràn, giăng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng không một chữ nói về tình nhưng cả bài thơ lại là một dòng tình bất với “thi tiên” Lý Bạch, “thi thánh” Đỗ Phủ cũng có những bài thơ được xếp vào loại hay nhất của thơ Đường. Một trong những bài thơ ấy là Thu hứng. Thu hửng có thể chia làm hai phần, bốn câu đầu tả cảnh thu, bốn câu sau chủ yếu thể hiện cảm xúc nhưng cả bài thơ câu nào cũng là “thu - hứng”Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,Vu sơn, Vu giáp khí tiêu gian ba lãng kiêm thiên dũng,Tái thượng phong vân tiếp địa cảnh thiên nhiên được gợi lên trong bốn câu thơ này là khung cảnh Quỳ Châu - nơi Đỗ Phủ cùng gia đình đang phải ngụ lại. Chỉ bằng hai hình ảnh ước lệ quen thuộc lộ sương, phong thụ lâm rừng cây phong, thi nhân đã mang mùa thu về ngập tràn câu thơ. Với hai từ điều thương, tiễu sâm, Đỗ Phủ đã lột tả được thần thái phong cảnh nơi đây. Thiên nhiên vào thu nhưng không mát mẻ, trong sáng mà lạnh lẽo, tăm tối, ảm đạm. Hướng cái nhìn lên vùng quan ải, thi nhân thấy sóng và mây. Nhưng sóng và mây vận động ngược chiều, lấp kín cả không gian, gây ấn tượng xao động dữ dội và nghẹt thở. Không gian quan ải hợp với không gian rừng núi bên trên mang đến người đọc cảm giác khá đậm nét về nỗi buồn mà thi nhân dường như cố tình phong kín trong lời thơ. Nỗi lòng của thi nhân dù được phong kín đến đâu cũng bị lộ hiện dưới ngòi bút miêu tả phong cảnh. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Đỗ Phủ đâu nói buồn mà sao câu thơ buồn thế? Đỗ Phủ đâu nói nhớ nhà, nhớ quê hương mà sao nỗi nhớ vẫn ngập đầy hai câu thơ luậnTùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,Cô chu nhất hệ cố viên nở và hệ buộc là hai động từ gắn với các vật thể vật chất, nhưng trong lời thơ khai và hệ còn gắn với những thứ thuộc về tinh thần, tình cảm nở ra... nước mắt, buộc vào... trái tim. Vậy thì nước mắt đó là của hoa hay của con người? Và chiếc thuyền kia sao lại buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ? Lưỡng vừa là hai, vừa chỉ số nhiều, chỉ sự lặp lại đã từng nở, bây giờ lại nở, đã từng rơi nước mắt, giờ lại rơi nước mắt. Nhất là “một”, là “duy nhất” nhưng cũng là “mãi mãi”, nhất hệ là “buộc mãi”. Mỗi con chữ bé nhỏ đã chất chứa nỗi lòng thi nhân, đã thể hiện nỗi nhớ thương vườn xưa, nhà xưa tha thiết, vời thơ kết thúc bằng những âm thanh tưởng như vô hồnHàn y xứ xứ thôi đao xích,Bạch Đế thành cao cấp mộ tĩnh lặng ở sáu câu thơ trước đến hai câu cuối này bị phá vỡ bởi tiếng “thước” đo vải, tiếng “dao” cắt vải, tiếng chày đập vải để may áo rét. Đó chính là âm thanh đặc thù của mùa thu Trung Quốc khi xưa - những âm thanh của công việc may áo chống rét gửi cho người chinh thú đang trân thủ biên cương bởi mùa thu lạnh lẽo đang về. Âm thanh của mùa thu may áo, âm thanh của sinh hoạt đời thường nhưng cũng là âm thanh não lòng. Nó gợi niềm thương nhớ người thân nơi phương trời giá lạnh. Nó cũng thắc thỏm một nỗi lo âu vì chiến tranh chưa dứt... Nguyễn Thị Bích Hải. Hai câu thơ kết lại bài thơ nhưng lại mở ra nỗi buồn nhớ, lo âu. Nó vốn dĩ không được thể hiện trực tiếp qua lời thơ nhưng cảm nhận Thu hứng không thể không hiểu điều chữ trong Thu hứng vừa tả cảnh, vừa chất chứa tâm trạng thi nhân. Hàm ẩn trong mỗi câu chữ, trong tứ thơ là văn hoá Trung Hoa, là tâm hồn “thi thánh” Đỗ Phủ. “Ngôn tận nhi ý bất tận” lời hết mà ý không hết là như thế. Đó chính là lý do khiến có người cho rằng Đỗ Phủ cảm thấy lời không thể nói hết ý. Vậy thì, cũng đừng có thể nghĩ rằng đã có thể phân tích “hết ỷ” nỗi niềm “Thu hứng”.Không chỉ các bậc “thi tiên”, “thi thánh” mới có lối viết cô đọng, hàm súc như thế. Những bài thơ hay nhất của thơ Đường, bài nào cũng có “ý tại ngôn ngoại”. Thế cho nên đọc Khuê oán Vương Xương Linh, người ta đâu có thấy lời thơ trực tiếp lên án chiến tranh phi nghĩa. Nhưng rõ ràng, qua nỗi hối và oán của khuê phụ, điều đó lại được thể hiện một cách rõ ràng. Thế cho nên, khi Vương Duy viết Nhân nhàn quế hoa lạc, ta có thể cảm nhận được sự tĩnh lặng của đêm và sự bình yên trong tâm hồn con người.“Ý tại ngôn ngoại” là một trong những đặc trưng tiêu biểu kết đọng vẻ đẹp của thơ Đường. Và vô hình trung, nó cũng trở thành nguyên lí sáng tác của rất nhiều nghệ sĩBài thơ anh làm một nửa mà thôi,Còn một nửa để mùa thu làm với bạn đọc, những vần thơ hàm súc như thế bao giờ cũng có sức hấp dẫn đặc biệt. “Ý tại ngôn ngoại” sẽ là chiếc cầu nối để độc giả có thể tri âm với tác giả, dù họ có sống cách nhau hàng vạn dặm, hàng trăm thế đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu "Ý tại ngôn ngoại” là một trong những đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường, anh chị hãy chứng minh đặc trưng đó qua các bài thơ Đường đã học cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 10 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 và biết cách soạn bài lớp 10 các bài trong sách Văn tập 1 và tập 2. Đồng thời các dạng đề thi học kì 1 lớp 10, đề thi học kì 2 lớp 10 mới nhất cũng sẽ được chúng tôi cập nhật. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.
Thâm trầm, sâu sắc là một trong những đặc trưng, tính cách nổi bật của người Trung Quốc. Đặc trưng này đã đi vào thơ ca, và trở thành một trong những nét tiêu biểu của thơ Đường “ý tại ngôn ngoại”. Cho đến bây giờ, thơ Đường đã có hàng ngàn năm tuổi. Nhưng những bài thơ như Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Thu hứng, Hoàng Hạc lâu, Khuê oán, Điểu minh giản... còn sống mãi trong lòng người đọc. Và một trong những điều làm nên sức bất tử cho các thi phẩm ấy chính là “ý tại ngôn ngoại”. Hiểu nôm na “ý tại ngôn ngoại” là ý ở ngoài lời, là nói ít gợi nhiều. Không phải các nhà thơ Đường tiết kiệm ngôn từ, hay không đủ năng lực diễn giải ý thơ của mình. Một trong những lí do đưa đến đặc trưng này chính là sự gò bó trong lề luật của thể thơ. Các bài thơ viết theo thể Đường luật luôn bị giới hạn bởi số câu, số chữ. Nhưng có lẽ chính điều đó lại khiển thơ Đường cô đọng, hàm súc hơn bất cứ kiểu thơ nào khác. Cái hay của thơ Đường chính là ở đó. Cái tài của thi nhân cũng chính là ở đó. Còn người đọc, tuỳ theo khả năng thẩm thấu văn chương mà mỗi người có thể tri âm với tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp của mỗi thi phẩm. Nếu đọc Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng một cách hời hợt, chúng ta chỉ có thể thấy những hình ảnh mà Lí Bạch đậ gợi nên trong sáng tác của mình Tháng ba mùa hoa khói, tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên xuôi về Dương Châu. Đôi mắt người đưa tiễn cứ trông theo cánh buồm trên con thuyền đưa bạn mình đến nơi xa, cho đến khi chỉ còn nhìn thấy sông Trường Giang chảy vào cõi trời. Nhưng nếu chỉ có vậy thì bài thơ Lí Bạch đầu đáng lưu đến tận ngày nay? Và nếu chỉ lời thơ chỉ đơn thuần như thế, Lí Bạch đâu đáng được gọi là “thi tiện”? Nhưng rõ ràng với bài thơ này, Lí Bạch đã dĩ vô tình ngôn tình lấy vô tình để nói tình nên tắc tình xuất tình tất hiện ra. Bài thơ toàn cảnh, nhưng rõ ràng, đọc nó, độc giả lại cảm nhận được “tình” một cách sâu đậm. Sở dĩ cộ được hiệu quả thẩm mĩ ấy là do những nghĩa hàm ẩn của từ ngữ, do các mốì quan hệ, do hình ảnh cánh buồm dần xa trong đôi mắt thể Kiện tình bạn triền miên vô tận trong tấm lòng. Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu Yên hoa tam nguyệt há Dương Cháu. Mạnh Hạo Nhiên mới bắt đầu dời lầu Hoàng Hạc mà Lí Bạch đã gọi là cố nhân. Bằng hai chữ này, tình bằng hữu thâm giao giữa Lí Bạch với Mạnh Hạo Nhiên được khắc hoạ một cách sâu đậm. Hơn thế nữa, thi nhân còn muốn nhấn vào sự chia li, cách biệt. Con thuyền đưa Hạo Nhiên vừa dời không gian lầu Hoàng Hạc mà sự chia cách dường như đã kéo dài theo thời gian xa tít, biến người bạn thân thiết mới đây còn kề cận của nhà thơ thành cố nhân tự lúc nào. Người Trung Quốc xưa coi “giai thì, mĩ cảnh, thắng sự, lương bằng” thời tiết đẹp, cảnh đẹp, việc hay, bạn tốt là “tứ thú”. Nhưng trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, “tứ thú” ấy lại khuyết một. Có giai thì, mĩ cảnh, lương bằng nhưng “sự" không “thắng” bởi “sự” là li biệt. Li biệt nên buồn là cảm xúc tất yếu. Bài thơ không nói có một chữ buồn nhưng nỗi buồn lại mênh mang. Và chính tâm trạng đó định hướng cho đôi mắt thi nhân Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiền tế lưu. Sông Trường Giang là huyết mạch giao thông, thương nghiệp của vùng Hoa Trung, Hoa Nam. Giữa mùa xuân thanh bình, hẳn trên sông phải tấp nập thuyền bè. Vậy mà người đưa tiễn chỉ nhìn thấy duy nhất một cánh buồm đơn chiếc cô phàm của cố nhân và cứ nhìn theo mãi cho đến khi nó mất hút sau dòng sông nước. Nỗi cô đơn cứ vời vợi theo hình ảnh thơ. Người ra đi cô đơn, người đưa tiễn cô đơn và cả cánh buồm tưởng như vô tri cũng cô đơn. Nỗi cô đơn càng gia tăng thêm nỗi buồn trong lòng người. Đó chính là lí do khiến bài thơ không một chữ “buồn” nhưng nỗi buồn lại ngập tràn, giăng mắc. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhỉên chi Quảng Lãng không một chữ nói về tình nhưng cả bài thơ lại là một dòng tình bất tận. Cùng với “thi tiên” Lí Bạch, “thi thánh” Đỗ Phù cũng có những bài thơ đựợc xếp vào loại hay nhất của thơ Đường. Một trong những bài thơ ấy là Thu hứng. Thu hửng có thể chia làm hai phần, bốn câu đầu tả cảnh thu, bốn câu sau chủ yếu thể hiện cảm xúc nhưng cả bài thơ câu nào cũng là “thu - hứng” Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, Tái thượng phong vân tiếp địa âm. Khung cảnh thiên nhiên được gợi lên trong bốn câu thơ này là khung cảnh Quỳ Châu - nơi Đỗ Phủ cùng gia đình đang phải ngụ lại. Chỉ bằng hai hình ảnh ước lệ quen thuộc lộ sương, phong thụ lâm rừng cây phong, thi nhân đã mang mùa thu về ngập tràn câu thơ. Với hai từ điều thương, tiễu sâm, Đỗ Phủ đã lột tả được thần thái phong cảnh nơi đây. Thiên nhiên vào thu nhưng không mat mẻ, trong sáng mà lạnh lẽo, tăm tối, ảm đạm. Hướng cái nhìn lên vùng quan ải, thi nhân thấy sóng và mây. Nhưng sóng và mây vận động ngược chiều, lấp kín cả không gian, gây ấn tượng xao động dữ dội và nghẹt thở. Không gian quan ải hợp vởi không gian rừng núi bên trên mang đến người đọc cảm giác khá đậm nét về nỗi buồn mà thi nhân dường như cố tình phong kín trong lời thơ. Nỗi lòng của thi nhân dù được phong kín đến đâu cũng bị lộ hiện dưới ngòi bút miêu tả phong cảnh. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Đỗ Phủ đâu nói buồn mà sao câu thơ buồn thế? Đỗ Phủ đâu nói nhớ nhà, nhớ quê hương mà sao nỗi nhớ vẫn ngập đầy hai câu thơ luận Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, Cô chu nhất hệ cố viên tâm. Khai nở và hệ buộc là hai động từ gắn với các vật thể vật chất, nhưng trong lời thơ khai và hệ còn gắn với những thứ thuộc về tinh thần, tình cảm nở ra... nước mắt, buộc vào... trái tim. Vậy thì nước mắt đó là của hoa hay của con người? Và chiếc thuyền kia sao lại buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ? Lưỡng vừa là hai, vừa chỉ số nhiều, chỉ sự lặp lại đã từng nở, bây giờ lại nở, đã từng rơi nước mắt, giờ lại rơi nước mắt. Nhất là “một”, là “duy nhất” nhưng cũng là “mãi mãi”, nhất hệ là “buộc mãi”. Mỗi con chữ bé nhỏ đã chất chứa nỗi lòng thi nhân, đã thể hiện nỗi nhớ thương vườn xưa, nhà xưa tha thiết, vời vợi. Bài thơ kết thúc bằng những âm thanh tưởng như vô hồn Hàn y xứ xứ thôi đao xích, Bạch Đế thành cao cấp mộ châm. Sự tĩnh lặng ở sáu câu thơ trước đến hai câu cuối này bị phá vỡ bởi tiếng “thước” đo vải, tiếng “dao” cắt vải, tiếng chày đập vải để may áo rét. Đó chính là âm thanh đặc thù của mùa thu Trung Quốc khi xưa - những âm thanh của công việc may áo chống rét gửi cho người chinh thú đang trân thủ biên cương bởi mùa thu lạnh lẽo đang về. Âm thanh của mùa thu may áo, âm thanh của sinh hoạt đời thường nhưng cũng là âm thanh não lòng. Nó gợi niềm thương nhớ người thân nơi phương trời giá lạnh. Nó cũng thắc thỏm một nỗi lo âu vì chiến tranh chưa dứt... Nguyễn Thị Bích Hải. Hai câu thơ kết lại bài thơ nhưng lại mở ra nỗi buồn nhớ, lo âu. Nó vốn dĩ không được thể hiện trực tiếp qua lời thơ nhưng cảm nhận Thu hứng không thể không hiểu điều đó. Mỗi chữ trong Thu hứng vừa tả cảnh, vừa chất chứa tâm trạng thi nhân. Hàm ẩn trong mỗi câu chữ, trong tứ thơ là văn hoá Trung Hoa, là tâm hồn “thi thánh” Đỗ Phủ. “Ngôn tận nhi ý bất tận” lời hết mà ý không hết là như thế. Đó chính là lí do khiến có người cho rằng Đỗ Phủ cảm thấy lời không thề nói hết ý. Vậy thì, cũng đừng có thể nghĩ rằng đã có thể phân tích “hết ỷ” nỗi niềm “Thu hứng”. Không chỉ các bậc “thi tiên”, “thi thánh” mới có lối viết cô đọng, hàm súc như thế. Những bài thơ hay nhất của thơ Đường, bài nào cũng có “ý tại ngôn ngoại”. Thế cho nên đọc Khuê oán Vương Xương Linh, người ta đâu có thấy lời thơ trực tiếp lên án chiến tranh phi nghĩa. Nhưng rõ ràng, qua nỗi hối và oán của khuê phụ, điều đó lại được thể hiện một cách rõ ràng. Thế cho nên, khi Vương Duy viết Nhân nhàn quế hoa lạc, ta có thể cảm nhận được sự tĩnh lặng của đêm và sự bình yên trong tâm hồn con người. “Ý tại ngôn ngoại” là một trong những đặc trưng tiêu biểu kết đọng vẻ đẹp của thơ Đường. Và vô hình trung, nó cũng trở thành nguyên lí sáng tác của rất nhiều nghệ sĩ Bài thơ anh làm một nửa mà thôi, Còn một nửa để mùa thu làm lấy. Và với bạn đọc, những vần thơ hàm súc như thế bao giờ cũng có sức hấp dẫn đặc biệt. “Ý tại ngôn ngoại” sẽ là chiếc cầu nốì để độc giả có thể tri âm với tác giả, dù họ có sống cách nhau hàng vạn dặm, hàng trăm thế kỉ.
Ý nghĩa của thành ngữ "ý tại ngôn ngoại" Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác thơ ca văn học tiếng Việt. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao. Việc nói thành ngữ là một tập hợp từ cố định có nghĩa là thành ngữ không tạo thành câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, cũng không thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ. Thành ngữ thường bị nhầm lẫn với tục ngữ và quán ngữ. Trong khi tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý nhằm nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh nghiệm sống, hay phê phán sự việc, hiện tượng. Một câu tục ngữ có thể được coi là một tác phẩm văn học khá hoàn chỉnh vì nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, và chức năng thẩm mỹ, cũng như chức năng giáo dục. Còn quán ngữ là tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành. Định nghĩa - Khái niệm ý tại ngôn ngoại có ý nghĩa là gì? Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của câu ý tại ngôn ngoại trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ ý tại ngôn ngoại trong Thành ngữ Tiếng Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ ý tại ngôn ngoại nghĩa là gì. ý ở ngoài lời nói hoặc viết. Không nói thẳng ra mà để người nghe, người đọc tự hiểu. Thuật ngữ liên quan tới ý tại ngôn ngoại nốt ruồi ở cổ, có lỗ tiền chôn là gì? mắng như tát nước vào mặt là gì? ba tháng mười ngày là gì? một mất một còn là gì? đá gà, đá vịt là gì? thay lòng đổi dạ là gì? như bát nước đầy là gì? nắng tốt dưa, mưa tốt lúa là gì? quyền cao chức trọng là gì? ăn phải bùa là gì? trăm hồng nghìn tía là gì? xa chùa vắng tiếng, gần chùa inh tai là gì? bà con vì tổ vì tiên, không phải vì tiền vì gạo là gì? một trăm người bán, một vạn người mua là gì? ra tay gạo xay ra cám là gì? Tóm lại nội dung ý nghĩa của câu "ý tại ngôn ngoại" trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt ý tại ngôn ngoại có nghĩa là ý ở ngoài lời nói hoặc viết. Không nói thẳng ra mà để người nghe, người đọc tự hiểu. Đây là cách dùng câu ý tại ngôn ngoại. Thực chất, "ý tại ngôn ngoại" là một câu trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt được cập nhập mới nhất năm 2023. Kết luận Hôm nay bạn đã học được thành ngữ ý tại ngôn ngoại là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới.
nhiều câu nói, bài thơ, đoạn văn, được mọi người cho là "ý tại ngôn ngoại".Bạn đang xem Yý tại ngôn ngoại là gìtác giả của chúng cố ý để cho có nhiều tầng nghĩa, hay là lớp hậu sinh tự đặt mình vào vị trí tác giả để "suy diễn" ra?ngoài thơ văn ra, "ý tại ngôn ngoại" có xuất hiện trong cách loại hình nghệ thuật khác không?bạn có thường nói những câu "ý tại ngôn ngoại" không?kuteboy bạn đang xem Yý tại ngôn ngoại là gì"nói giảm nói tránh" chỉ là mặt tích cực ta còn hay sử dụng kiểu "nói vậy mà không phải vậy" trong các câu chuyện cười nhất là chuyện "mặn", hoặc để châm phần đầu câu trả lời của bạn chỉ có thể gọi là "định nghĩa vui".cả 2 phần tôi đều đã tham khảo trên mạng trước khi đặt câu hỏi này. dễ dàng tìm được bằng googletôi không dám có ý kiến gì về việc copy nguyên văn thông tin tìm được trên mạng để làm câu trả lời bản thân đôi cũng đã vài lần làm như vậy, nhưng ít ra bạn cũng phải ghi nguồn thêm Khuyến Cáo Căng Da Mặt Có Nên Căng Da Mặt Ở Tuổi 30? Căng Da Mặt Tại Viện Thẩm Mỹ 108 Hà NộiÝ tại ngôn ngoại có nghĩa lời nói không chuyển hêt ý cho người nghe. ngoài ra nó còn bao hàm ẩn ý. Đây là kiểu nói của các nhà hiền triết Phương Đông, đặc biệt về "thiền" mà các thiền sư không thể giải thích cụ thể cho học trò mà chỉ ngộ ra mà thôi. Thí dụ"Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị 1868- 1912, tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót. Vị giáo sư nhìn cốc nước tràn cho đến khi không nhịn được, bèn lên tiếng "Nó đã đầy tràn rồi, không thêm được nữa đâu!" "Thì cũng như chiếc cốc này" Nan-In thong thả nói, "ông đã mang đầy tư kiến và thành kiến. Làm sao tôi có thể chỉ cho ông về Thiền nếu ông không cạn cốc của ông?"30Ẩn danh1 thập kỷ trướclà ngôi ngữ luôn không lột tả được hết nghĩa. Nôm na là ''nói vzậy mà không phải zậy'' Một vài ý hài hước của ''ý tại ngôn ngoại''Bồi thường Việc làm thể hiện sự ân hận muộn mằn!Chí Phèo Kẻ chứng minh rằng rượu làm phụ nữ đẹp hơn!Eva Người chứng minh rằng xương sườn là bộ phận quan trọng nhất!Hơi thở Vật liệu xây dựng nên tiếng nói! Ợ Lời vĩnh biệt của thức ăn sau bữa ăn!Than khổ Được chung cư đòi nhà mặt phố!Adam Nạn nhân đầu tiên bị phụ nữ đè nén!Thiếp mời Giấy vay hoặc báo nợ có thời hạn!Mặc cả Mua đúng giá nhưng luôn sợ mình bị hớ!Chủ ngân hàng Người cho bạn mượn cái ô khi trời nắng và đòi nó lại khi trời... sắp mưa!Ý tại ngôn người ta nói “May I seat here?” thì phải hiểu là “cho tớ ngồi ké tí nhé” chứ không phải là “tớ ngồi đây được không?”. Nó khác hoàn toàn “can I seat here?” mặc dù từ can và may không khác nhau về ngữ nghĩa nếu ta tra từ điển. Trong câu “You can seat here” với lại “You may seat here” sự khác nhau về ngữ nghĩa không nhiều lắm. Vậy ra, cái gọi là ý tại ngôn ngoại không cứ phải ở trong văn chương. Ta có thể gặp chúng hằng anh thông ngôn tồi sẽ dịch theo kiểu “tớ ngồi đây được không”, một chị biên dịch viên kém sẽ đánh đồng hai từ đó vào làm một. Tại sao lại như thế? Chắc chắn không phải vì lý do hai anh chị này dốt. Sở dĩ khác nhau là vì khi chuyển ngữ, hai anh chị này không đặt mình vào cái bối cảnh của người nói ra cái câu kia. Có người gọi đó là đặc thù văn hóa, có người gọi đó là thói quen ngôn ngữ. Cả hai cái yếu tố đó xác định các biểu tượng nhất định khi thực hiện việc giao tiếp bằng ngôn ngữ. Vì thế nếu có anh nói “ May I seat here?” thì chắc chắn là muốn ngồi cái chỗ đó lắm rồi có thể người được hỏi là một cô gái rất xinh đẹp! Thế thì làm sao có thể hiểu là “tớ có thể ngồi đây được không?”. Người có cùng mạch suy nghĩ, tức là có cùng một hệ biểu tượng, thì sẽ hiểu ngay; ngược lại, giống như anh chị thông ngôn của chúng ta thì sẽ hiểu một cách chính xác đến sai lầm!-Đọc và hiểu khó vậy đấy. Sinh viên, học sinh Việt Nam chưa mấy ai đạt được trình độ "đọc và hiểu". Hầu hết chỉ là đọc keywords - rồi suy ra ý. Đọc rất khó. Giải bài tập sách bài tập hóa 9Máy ép hoa quả giá rẻĐội tuyển việt nam 2021, tin tức, video, ltđ đtvn hôm nayThuốc cảm cúm cho trẻ sơ sinh
Thâm trầm, sâu sắc là một trong những đặc trưng, tính cách nổi bật của người Trung Quốc. Đặc trưng này đã đi vào thơ ca, và trở thành một trong những nét tiêu biểu của thơ Đường “ý tại ngôn ngoại”. Cho đến bây giờ, thơ Đường đã có hàng ngàn năm tuổi. Nhưng những bài thơ như Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Thu hứng, Hoàng Hạc lâu, Khuê oán, Điểu minh giản… còn sống mãi trong lòng người đọc. Và một trong những điều làm nên sức bất tử cho các thi phẩm ấy chính là “ý tại ngôn ngoại”. Hiểu nôm na “ý tại ngôn ngoại” là ý ở ngoài lời, là nói ít gợi nhiều. Không phải các nhà thơ Đường tiết kiệm ngôn từ, hay không đủ năng lực diễn giải ý thơ của mình. Một trong những lí do đưa đến đặc trưng này chính là sự gò bó trong lề luật của thể thơ. Các bài thơ viết theo thể Đường luật luôn bị giới hạn bởi số câu, số chữ. Nhưng có lẽ chính điều đó lại khiển thơ Đường cô đọng, hàm súc hơn bất cứ kiểu thơ nào khác. Cái hay của thơ Đường chính là ở đó. Cái tài của thi nhân cũng chính là ở đó. Còn người đọc, tuỳ theo khả năng thẩm thấu văn chương mà mỗi người có thể tri âm với tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp của mỗi thi phẩm. Nếu đọc Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng một cách hời hợt, chúng ta chỉ có thể thấy những hình ảnh mà Lí Bạch đậ gợi nên trong sáng tác của mình Tháng ba mùa hoa khói, tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên xuôi về Dương Châu. Đôi mắt người đưa tiễn cứ trông theo cánh buồm trên con thuyền đưa bạn mình đến nơi xa, cho đến khi chỉ còn nhìn thấy sông Trường Giang chảy vào cõi trời. Nhưng nếu chỉ có vậy thì bài thơ Lí Bạch đầu đáng lưu đến tận ngày nay? Và nếu chỉ lời thơ chỉ đơn thuần như thế, Lí Bạch đâu đáng được gọi là “thi tiện”? Nhưng rõ ràng với bài thơ này, Lí Bạch đã dĩ vô tình ngôn tình lấy vô tình để nói tình nên tắc tình xuất tình tất hiện ra. Bài thơ toàn cảnh, nhưng rõ ràng, đọc nó, độc giả lại cảm nhận được “tình” một cách sâu đậm. Sở dĩ cộ được hiệu quả thẩm mĩ ấy là do những nghĩa hàm ẩn của từ ngữ, do các mốì quan hệ, do hình ảnh cánh buồm dần xa trong đôi mắt thể Kiện tình bạn triền miên vô tận trong tấm lòng. Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu Yên hoa tam nguyệt há Dương Cháu. Mạnh Hạo Nhiên mới bắt đầu dời lầu Hoàng Hạc mà Lí Bạch đã gọi là cố nhân. Bằng hai chữ này, tình bằng hữu thâm giao giữa Lí Bạch với Mạnh Hạo Nhiên được khắc hoạ một cách sâu đậm. Hơn thế nữa, thi nhân còn muốn nhấn vào sự chia li, cách biệt. Con thuyền đưa Hạo Nhiên vừa dời không gian lầu Hoàng Hạc mà sự chia cách dường như đã kéo dài theo thời gian xa tít, biến người bạn thân thiết mới đây còn kề cận của nhà thơ thành cố nhân tự lúc nào. Người Trung Quốc xưa coi “giai thì, mĩ cảnh, thắng sự, lương bằng” thời tiết đẹp, cảnh đẹp, việc hay, bạn tốt là “tứ thú”. Nhưng trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, “tứ thú” ấy lại khuyết một. Có giai thì, mĩ cảnh, lương bằng nhưng “sự” không “thắng” bởi “sự” là li biệt. Li biệt nên buồn là cảm xúc tất yếu. Bài thơ không nói có một chữ buồn nhưng nỗi buồn lại mênh mang. Và chính tâm trạng đó định hướng cho đôi mắt thi nhân Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiền tế lưu. Sông Trường Giang là huyết mạch giao thông, thương nghiệp của vùng Hoa Trung, Hoa Nam. Giữa mùa xuân thanh bình, hẳn trên sông phải tấp nập thuyền bè. Vậy mà người đưa tiễn chỉ nhìn thấy duy nhất một cánh buồm đơn chiếc cô phàm của cố nhân và cứ nhìn theo mãi cho đến khi nó mất hút sau dòng sông nước. Nỗi cô đơn cứ vời vợi theo hình ảnh thơ. Người ra đi cô đơn, người đưa tiễn cô đơn và cả cánh buồm tưởng như vô tri cũng cô đơn. Nỗi cô đơn càng gia tăng thêm nỗi buồn trong lòng người. Đó chính là lí do khiến bài thơ không một chữ “buồn” nhưng nỗi buồn lại ngập tràn, giăng mắc. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhỉên chi Quảng Lãng không một chữ nói về tình nhưng cả bài thơ lại là một dòng tình bất tận. Cùng với “thi tiên” Lí Bạch, “thi thánh” Đỗ Phù cũng có những bài thơ đựợc xếp vào loại hay nhất của thơ Đường. Một trong những bài thơ ấy là Thu hứng. Thu hửng có thể chia làm hai phần, bốn câu đầu tả cảnh thu, bốn câu sau chủ yếu thể hiện cảm xúc nhưng cả bài thơ câu nào cũng là “thu – hứng” Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, Tái thượng phong vân tiếp địa âm. Khung cảnh thiên nhiên được gợi lên trong bốn câu thơ này là khung cảnh Quỳ Châu – nơi Đỗ Phủ cùng gia đình đang phải ngụ lại. Chỉ bằng hai hình ảnh ước lệ quen thuộc lộ sương, phong thụ lâm rừng cây phong, thi nhân đã mang mùa thu về ngập tràn câu thơ. Với hai từ điều thương, tiễu sâm, Đỗ Phủ đã lột tả được thần thái phong cảnh nơi đây. Thiên nhiên vào thu nhưng không mat mẻ, trong sáng mà lạnh lẽo, tăm tối, ảm đạm. Hướng cái nhìn lên vùng quan ải, thi nhân thấy sóng và mây. Nhưng sóng và mây vận động ngược chiều, lấp kín cả không gian, gây ấn tượng xao động dữ dội và nghẹt thở. Không gian quan ải hợp vởi không gian rừng núi bên trên mang đến người đọc cảm giác khá đậm nét về nỗi buồn mà thi nhân dường như cố tình phong kín trong lời thơ. Nỗi lòng của thi nhân dù được phong kín đến đâu cũng bị lộ hiện dưới ngòi bút miêu tả phong cảnh. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Đỗ Phủ đâu nói buồn mà sao câu thơ buồn thế? Đỗ Phủ đâu nói nhớ nhà, nhớ quê hương mà sao nỗi nhớ vẫn ngập đầy hai câu thơ luận Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, Cô chu nhất hệ cố viên tâm. Khai nở và hệ buộc là hai động từ gắn với các vật thể vật chất, nhưng trong lời thơ khai và hệ còn gắn với những thứ thuộc về tinh thần, tình cảm nở ra… nước mắt, buộc vào… trái tim. Vậy thì nước mắt đó là của hoa hay của con người? Và chiếc thuyền kia sao lại buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ? Lưỡng vừa là hai, vừa chỉ số nhiều, chỉ sự lặp lại đã từng nở, bây giờ lại nở, đã từng rơi nước mắt, giờ lại rơi nước mắt. Nhất là “một”, là “duy nhất” nhưng cũng là “mãi mãi”, nhất hệ là “buộc mãi”. Mỗi con chữ bé nhỏ đã chất chứa nỗi lòng thi nhân, đã thể hiện nỗi nhớ thương vườn xưa, nhà xưa tha thiết, vời vợi. Bài thơ kết thúc bằng những âm thanh tưởng như vô hồn Hàn y xứ xứ thôi đao xích, Bạch Đế thành cao cấp mộ châm. Sự tĩnh lặng ở sáu câu thơ trước đến hai câu cuối này bị phá vỡ bởi tiếng “thước” đo vải, tiếng “dao” cắt vải, tiếng chày đập vải để may áo rét. Đó chính là âm thanh đặc thù của mùa thu Trung Quốc khi xưa – những âm thanh của công việc may áo chống rét gửi cho người chinh thú đang trân thủ biên cương bởi mùa thu lạnh lẽo đang về. Âm thanh của mùa thu may áo, âm thanh của sinh hoạt đời thường nhưng cũng là âm thanh não lòng. Nó gợi niềm thương nhớ người thân nơi phương trời giá lạnh. Nó cũng thắc thỏm một nỗi lo âu vì chiến tranh chưa dứt… Nguyễn Thị Bích Hải. Hai câu thơ kết lại bài thơ nhưng lại mở ra nỗi buồn nhớ, lo âu. Nó vốn dĩ không được thể hiện trực tiếp qua lời thơ nhưng cảm nhận Thu hứng không thể không hiểu điều đó. Mỗi chữ trong Thu hứng vừa tả cảnh, vừa chất chứa tâm trạng thi nhân. Hàm ẩn trong mỗi câu chữ, trong tứ thơ là văn hoá Trung Hoa, là tâm hồn “thi thánh” Đỗ Phủ. “Ngôn tận nhi ý bất tận” lời hết mà ý không hết là như thế. Đó chính là lí do khiến có người cho rằng Đỗ Phủ cảm thấy lời không thề nói hết ý. Vậy thì, cũng đừng có thể nghĩ rằng đã có thể phân tích “hết ỷ” nỗi niềm “Thu hứng”. Không chỉ các bậc “thi tiên”, “thi thánh” mới có lối viết cô đọng, hàm súc như thế. Những bài thơ hay nhất của thơ Đường, bài nào cũng có “ý tại ngôn ngoại”. Thế cho nên đọc Khuê oán Vương Xương Linh, người ta đâu có thấy lời thơ trực tiếp lên án chiến tranh phi nghĩa. Nhưng rõ ràng, qua nỗi hối và oán của khuê phụ, điều đó lại được thể hiện một cách rõ ràng. Thế cho nên, khi Vương Duy viết Nhân nhàn quế hoa lạc, ta có thể cảm nhận được sự tĩnh lặng của đêm và sự bình yên trong tâm hồn con người. “Ý tại ngôn ngoại” là một trong những đặc trưng tiêu biểu kết đọng vẻ đẹp của thơ Đường. Và vô hình trung, nó cũng trở thành nguyên lí sáng tác của rất nhiều nghệ sĩ Bài thơ anh làm một nửa mà thôi, Còn một nửa để mùa thu làm lấy. Và với bạn đọc, những vần thơ hàm súc như thế bao giờ cũng có sức hấp dẫn đặc biệt. “Ý tại ngôn ngoại” sẽ là chiếc cầu nốì để độc giả có thể tri âm với tác giả, dù họ có sống cách nhau hàng vạn dặm, hàng trăm thế kỉ. TaigameIOline - Chia sẻ mọi thứ về Game, Phần Mềm, Thủ Thuật dành cho máy tính với những tin hay nhất và những thông tin kiến thức hỏi đáp.
ý tại ngôn ngoại